bản cuối cùng thống nhất gửi cho cô giáo nè!
:: THÔNG TẤN XÃ :: Chuyện học hành
Trang 1 trong tổng số 1 trang
bản cuối cùng thống nhất gửi cho cô giáo nè!
Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Dấu hiệu của Khủng hoảng tài chính là:
1. Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
2. Các khách hàng vay vốn , gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
3. Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Khủng hoảng tài chính Mỹ
1. Nguyên nhân
a) Nguyên nhân sâu xa
“sự mất cân đối toàn cầu ”
Nhiều người có quan điểm cho rằng mất cân đối toàn cầu (global imbalances) gây ra cuộc khủng hoảng nhìn nhận, một lượng tiền dư thừa từ những quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao, như Trung Quốc và các nước xuất khẩu dầu lửa, đã chảy vào nước Mỹ. Những dòng tiền này khiến lãi suất tại Mỹ được duy trì ở mức thấp và tạo ra sự bùng nổ trong lĩnh vực cho vay tín dụng, tiếp đó là sự tăng vọt của giá các loại tài sản như nhà đất và chứng khoán. Rốt cục, khi những bong bóng này vỡ, khủng hoảng tài chính nổ ra theo.
“Sự buông lỏng quản lý mới cùng với việc không tuân thủ kỷ luật thị trường.”
Hệ thống tài chính phi ngân hàng (shadow banking system) - một mạng lưới có độ ràng buộc lẫn nhau cực cao, gồm các ngân hàng đầu tư, các quỹ đầu cơ, các tổ chức cho vay địa ốc… - lại không nằm dưới sự giám sát của các quy chế chặt chẽ (chẳng hạn các quy định về mức độ đủ vốn) thường được áp dụng cho các ngân hàng thương mại.
việc các tổ chức trên ở trong tình trạng quản lý lỏng lẻo lại khuyến khích các ngân hàng thương mại (có các chi nhánh là các tổ chức phi ngân hàng như đề cập ở trên) trốn tránh các quy định về mức vốn bằng cách đẩy rủi ro vào những tổ chức này.
b) Nguyên nhân trực tiếp
“sự suy sụp của thị trường bất động sản”.
Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp.
Nguyên nhân qua 3 bước:
1. Bong bóng bất động sản hình thành
“ Fed và các ngân hàng hạ lãi suất”
Từ sau năm 2000, Fed bắt đầu thực hiện chính sách cắt giảm lãi suất quỹ dự trữ liên bang, từ 6.5% năm 2000, vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%; từ đó kéo theo lãi suất LIBOR và SIBOR giảm xuống theo còn khoảng 3%
“Chính sách kích thích mua nhà của Chính Phủ”
về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản trở thành sân chơi mới cho các nhà đầu tư
Bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc.
Việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay.
2. Bong bóng nhà đất vỡ.
Sau giai đoạn giảm lãi suất này, nhận thấy việc áp dụng lãi suất thấp gây ra áp lực lạm phát và hình thành bong bóng bất động sản, do đó
Fed đã tiến hành tăng lãi suất từ giữa năm 2004 đến giữa năm 2006 đạt mức 5.25%. Lãi suất tăng cao tác động đến khả năng trả nợ của những người đi vay trước kia:
Số đông tầng lớp trung lưu, đang vay nợ để đầu tư vào nhà đất, lúc này không còn chịu đựng nổi gánh nặng lãi suất.
• Vào cuối 2008, hàng loạt người vay nợ buộc phải trả lại nhà cửa, bất động sản mua bằng tiền vay không có thế chấp cho ngân hàng để trừ nợ. Giá bất động sản sụt giảm nhanh chóng. Tài sản cho vay được chứng khoán hoá bị bán ra ào ạt, khiến cho giá của chúng sụt giảm mạnh trên thị trường chứng khoán, cùng một lúc, hàng loạt con nợ bị vỡ nợ, với quy mô lớn, khiến cho vốn của các ngân hàng bị bốc hơi nhanh chóng
• Sự hoảng loạn từ thị trường nhà đất, lan sang thị trường chứng khoán, rồi lan sang hệ thống ngân hàng (bank panics). Khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra.
+ Những người có nhu cầu mua nhà để sinh hoạt cũng giảm nhu cầu mua nhà của mình xuống do lãi suất cao, giá nhà giảm. Chính vì lý do này kéo nhu cầu mua nhà giảm xuống
3. thị trường bất động sản đóng băng, Các ngân hàng bước vào khủng hoảng
Khi giá nhà giảm, các nhà đầu tư trên thị trường bắt đầu phản ứng của mình:
+ Bán nhà để cắt lỗ trước khi quá muộn.
+ Thị trường bất động sản đóng băng do sự giảm giá, kéo theo tài sản của ngân hàng giảm, ngân hàng phải phát mãi tài sản đang nắm giữ: MBS, ABS giá các tài sản này nhằm đảm bảo các chỉ tiêu về họat động của mình giảm xuống.
Do lãi suất tăng, một phần việc cho vay không an toàn do sự đi xuống của thị trường bất động sản, số lượng người rút tiền tăng. Do đó,
làm cho ngân hàng thiếu vốn huy động được từ liên ngân hàng., ngân hàng phải thanh lý tài sản (MBS, ABS) của mình để có tiền mặt thanh toán, giá các tài sản này càng giảm, các chỉ tiêu về hoạt động này càng xấu đi.
2. Diễn biến
• 2004-2006: Lãi suất ở Mỹ tăng từ 1% lên 5,35%, thị trường địa ốc Mỹ bắt đầu xuống giá. Các khoản vay địa ốc dưới chuẩn không trả được tăng vọt đến mức báo động.
• 2007: Các ngân hàng lớn lần lượt báo cáo lỗ do dính vào các khoản vay loại này.
• 17-3-2008: Bear Stearns, ngân hàng lớn thứ năm ở Wall Street, mới năm ngoái có giá khoảng 18 tỉ đô la phải bán cho JP Morgan Chase với giá 2 đô la/cổ phiếu so với giá 172 đô la/cổ phiếu đầu năm 2007. Fed (New York) đứng đằng sau cho vay 29 tỉ đô la để bảo lãnh các khoản nợ khó đòi.
• 11-7-2008: Ngân hàng IndyMac bị đặt dưới quyền kiểm soát của Fed và sau đó tuyên bố phá sản.
• 6-9-2008: Fed nắm quyền kiểm soát Fannie Mae và Freddie Mac, hai tập đoàn bảo lãnh tín dụng địa ốc lớn nhất Mỹ.
• 14-9-2008: Ngân hàng đầu tư Lehman Brothers tuyên bố phá sản.
• 15-9-2008: Merrill Lynch, lo sợ số phận tương tự Lehman Brothers, phải bán cho Bank of America với giá 50 tỉ đô la.
• 16-9-2008: Fed đồng ý cho AIG vay 85 tỉ đô la đổi lại quyền nắm giữ 80% cổ phiếu của hãng bảo hiểm này.
• 18-9-2008: Fed và ngân hàng trung ương các nước khác bơm 180 tỉ đô la để tháo băng tín dụng ngân hàng.
• 19-9-2008: Chính phủ Mỹ tuyên bố một kế hoạch tổng thể để cứu hệ thống tài chính, gồm một chương trình mua lại các khoản vay thế chấp xấu với chi phí ước tính lên đến 700 tỉ đô la.
3. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
Nước Mỹ
- 33 ngân hàng hàng đầu đã phá sản
- Sự xóa sổ của hai tên tuổi lừng danh là Công ty tài chính Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại và tập đoàn tài chính hàng đầu thế giới Merill Lynch 94 tuổi đời.
- Đợt sụt giảm tới 45% của chỉ số S&P 500, 4% suy giảm sản xuất, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 6,2% lên 9,7%, và gói giải cứu 784 tỷ USD cho tới kỷ lục thâm hụt ngân sách 15.900 tỷ USD.
- Nền kinh tế tiêu thụ của Mỹ đã bộc lộ rất nhiều lỗ hổng
- Siêu cường kinh tế của Mỹ đang bị đe dọa, ảnh hưởng đến sức khỏe đồng đô la
- Các số liệu cũng cho thấy, hiện tại tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ vẫn ở mức cao là 9,8%
- Số tiền chống khủng hoảng là 3,6 nghìn tỷ USD chiếm 25% GDP, bình quân 10.000USD/đầu người.
(theo VnEconomy)
4. Bài học rút ra
Đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia :
- Một hệ thống tài chính mạnh và được quản lý tốt sẽ là bước phòng thủ đầu tiên trước bất kỳ cơn bão tài chính nào
- Những phản ứng chính sách mạnh mẽ và liên tục là vòng bảo vệ
- Khả năng quản lý vĩ mô khéo léo và giá cả bất động sản.
- Tỷ giá linh hoạt mở rộng hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc đối phó với khủng hoảng tài chính.
- Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trầm trọng một phần cũng do sự mất cân đối của hệ thống tài chính của mỗi quốc gia.
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đến Việt Nam
Nhận định:
.Thị trường tài chính- Tiền tệ : hệ thống tài chính của Việt nam sẽ không chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng này so với các nước có mức độ hội nhập tài chính sâu rộng. Những tác động chính từ cuộc khủng hoảng hiện tại đối với hệ thống tài chính Việt Nam chủ yếu là yếu tố tâm lý
.Chứng khoán: tác động đến dự trữ ngoại hối và giá cả trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư nước ngoài bán ra nhiều hơn mua vào sẽ làm giảm giá chứng khoán của Việt Nam
Tác động từ tâm lý:
thị trường chứng khoán Việt Nam nhiều khi bị chi phối bởi tâm lý. Và có lẽ trong những ngày qua, khi thị trường tài chính thế giới gặp sóng gió, tâm lý lo lắng cũng một phần chuyển qua không ít nhà đầu tư Việt Nam.
Ngân Hàng
Nó có thể ảnh hưởng tới nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp. Mặc dù số nợ này không lớn, chỉ khoảng hai tỷ USD, nhưng người ta buộc phải tái cấu trúc kỳ hạn và lãi suất, và như thế có thể ảnh hưởng tình hình tài chính của một số ngân hàng và doanh nghiệp
Những tác động chung đến nền kinh tế
- Xuất khẩu sẽ gặp khó khăn lớn và giảm cả số lượng và giá cả…
- Giảm thu ngoại tệ cho quốc gia, giảm sản xuất trong nước, giảm GDP, thất nghiệp tăng
- Đầu tư nước ngoài FDI, FII, ODA giảm, giải ngân chậm…giảm nguồn thu ngoại tệ, thị trường BĐS tiếp tục khó khăn, nợ quá hạn của NH sẽ tăng
- Kiều hối giảm mạnh, đặc biệt là kiều hối “đầu tư”.
- Lãi suất vay USD tăng, chi phí trả nợ nước ngoài tăng
- Hệ thống NHTM gặp khó khăn trong thanh toán quốc tế và chi phí chuyển tiền tăng do phải tránh bão.
- Thị trường chứng khoán tiếp tục diễn biến phức tạp, do vốn nước ngoài rút.
- Vấn đề việc làm, an sinh xã hội là bài toán khó.
.
Những bài học và đối sách cần có cho Việt Nam
Không có ngoại lệ và miễn dịch phá sản cho bất kỳ đại gia nào trong cuộc chơi trên sân kinh tế thị trường
Vai trò của công tác thông tin, dự báo và giám sát, cảnh báo an toàn, nhất là an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng là hết sức quan trọng và luôn tỉnh táo với các tác động lan tỏa, dây chuyền của các sự biến kinh tế trên thị trường trong nước và quốc tế.
Nhà nước có vai trò không thể thiếu được và ngày càng to lớn trong cuộc chiến với các chấn động kinh tế chu kỳ hoặc bột phát
Việt Nam cần giám sát chặt chẽ cán cân tài khoản vốn, tỷ lệ nợ quốc gia /GDP,… để phòng ngừa sự tích tụ của các rủi ro mang tính hệ thống trên thị trường.
Vấn đề hỗ trợ và tăng cường các biện pháp đảm bảo an sinh xã hội là điều cần phải quan tâm thực hiện mạnh mẽ hơn trong giai đoạn khủng hoảng.
Tập trung nguồn lực nhằm đạt tăng trưởng bằng mọi giá có thể để lại những nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển KT-XH trong dài hạn
Duy trì tăng trưởng kinh tế là một điều kiện cần thiết nhưng phải đi đôi và gắn chặt với ổn định và lành mạnh hóa chính sách kinh tế vĩ mô:
+ Duy trì lãi suất hợp lý,
+ duy trì tăng trưởng GDP năm 2009 ở mức 6% là chấp nhận được trong tình hình thế giới hiện nay.
+ NHTW cần nhanh chóng giảm lãi suất cơ bản điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát cơ bản
+ Hỗ trợ doanh nghiệp duy trí và mở rộng lại sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu khi có cơ hội tốt.
+ Quan trọng là giảm thất nghiệp đảm bảo an sinh xã hội, phục hồi tăng trưởng kinh tế..
+ Khi có dấu hiệu lạm phát giảm mạnh, thì cần cải tổ chính sách tiền lương CBCC nhà nước, hành chính sự nghiệp…
+ Cần có một gói giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu: thuế, vốn, lãi suất, tỷ giá, xúc tiến thương mại…
+ Có một gói giải pháp để ổn định thị trường bất động sản
+ Kiểm tra giám sát “sức khỏe” các NHTM một cách thường xuyên thông qua báo cáo tuần.
+ Kiểm tra giám sát “sức khỏe” các đại gia bất động sản.
+ Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, không để nhập siêu quá lớn, tăng thuế các mặt hàng xa xỉ
\
Biện Pháp:
Chính phủ Việt Nam
* Những biện pháp đồng bộ gồm 8 nhóm giải pháp lớn:
1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ
2. Chính phủ sẽ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng kiểm soát chặt chẽ
3. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa
4. Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu
5. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu và năng lượng
6. Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá
7. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội
8. Các phương tiện thông tin đại chúng cần đẩy mạnh thông tin và tuyên truyền một cách chính xác, ủng hộ các chủ trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh thông tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã hội.
* Thực hiện ba chính sách hoàn toàn khác nhau:
năm 2007 - tất cả cho tăng trưởng,
năm 2008 - ổn định chính sách vĩ mô
từ cuối năm 2008 đến nay - chống suy giảm kinh tế
* Gói kích cầu lần I đã là 1 tỷ USD tương đương 170.000 ngàn tỷ đồng
* Ngân hàng TƯ đã cắt giảm một nửa lãi suất với các khoản vay chính sách xuống còn 7% từ giữa năm 2008 đến tháng 2/2009
*Gói kích thích kinh tế lần 2: Tái cấu trúc doanh nghiệp
Trong phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 10 vừa qua, Chính phủ đã quyết định tiếp tục thực hiện gói kích thích kinh tế nhưng giảm mức độ hỗ trợ và phạm vi.
Theo đó, việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn để đầu tư mới nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh (theo Quyết định 433) và hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp, vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn (theo Quyết định 497) sẽ được kéo dài đến 31/12/2010. Tuy vậy, mức hỗ trợ lãi suất được điều chỉnh từ 4% xuống 2%. Chính phủ cũng quyết định kéo dài hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh (theo Quyết định 131) đến hết quý I năm 2010 và thay mức hỗ trợ 4% bằng mức 2%.
(Nguồn: http://vovnews.vn)
Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam
- Giảm thiểu chi phí
- Chấp nhận thu hẹp lợi nhuận
- Tăng cường hoạt động tiếp thị
- Níu giữ lao động có tay nghề
- Tái cơ cấu lại hoạt động doanh nghiệp.
- Tận dụng cơ hội do khủng hoảng đem lại để mua được những công nghệ tiên tiến từ các thị trường tiên tiến như Mỹ, Nhật, EU để tái cơ cấu lại công nghệ.
- Nhiều doanh nghiệp Việt Nan thực hiện phương châm “Dựa vào nhau để sống và phát triển”..
Kết quả và Dấu hiệu phục hồi vào cuối quí III/2009:
- Tăng trưởng kinh tế quý sau cao hơn quý trước (quý I: 3,1%, quý II: 4,5%, quý III: 5,6%), trung bình chín tháng đạt khoảng 4,6%
-Tình hình nhập khẩu đã dần được cải thiện trong những tháng gần đây.
Cụ thể quý I/2009 giảm khoảng trên 40%, quý II giảm gần 30%, tính chung cả chín tháng đầu năm giảm khoảng trên 20% so với cùng kỳ năm trước.
(nguồn: 21 Tháng Mười Một 2009
- Chỉ số giá tiêu dùng (7%),
- bội chi ngân sách bằng (6,9%),
- 79.000 doanh nghiệp mới được thành lập,
- tạo thêm trên 1,5 triệu lao động…
(nguồn Vfej.vn)
WB dự đoán, mức tăng trưởng cả năm 2009 của Việt Nam sẽ là 5,5%, và tin tưởng rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ tự tìm đường thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng một cách tốt đẹp.
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Dấu hiệu của Khủng hoảng tài chính là:
1. Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
2. Các khách hàng vay vốn , gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
3. Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Khủng hoảng tài chính Mỹ
1. Nguyên nhân
a) Nguyên nhân sâu xa
“sự mất cân đối toàn cầu ”
Nhiều người có quan điểm cho rằng mất cân đối toàn cầu (global imbalances) gây ra cuộc khủng hoảng nhìn nhận, một lượng tiền dư thừa từ những quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao, như Trung Quốc và các nước xuất khẩu dầu lửa, đã chảy vào nước Mỹ. Những dòng tiền này khiến lãi suất tại Mỹ được duy trì ở mức thấp và tạo ra sự bùng nổ trong lĩnh vực cho vay tín dụng, tiếp đó là sự tăng vọt của giá các loại tài sản như nhà đất và chứng khoán. Rốt cục, khi những bong bóng này vỡ, khủng hoảng tài chính nổ ra theo.
“Sự buông lỏng quản lý mới cùng với việc không tuân thủ kỷ luật thị trường.”
Hệ thống tài chính phi ngân hàng (shadow banking system) - một mạng lưới có độ ràng buộc lẫn nhau cực cao, gồm các ngân hàng đầu tư, các quỹ đầu cơ, các tổ chức cho vay địa ốc… - lại không nằm dưới sự giám sát của các quy chế chặt chẽ (chẳng hạn các quy định về mức độ đủ vốn) thường được áp dụng cho các ngân hàng thương mại.
việc các tổ chức trên ở trong tình trạng quản lý lỏng lẻo lại khuyến khích các ngân hàng thương mại (có các chi nhánh là các tổ chức phi ngân hàng như đề cập ở trên) trốn tránh các quy định về mức vốn bằng cách đẩy rủi ro vào những tổ chức này.
b) Nguyên nhân trực tiếp
“sự suy sụp của thị trường bất động sản”.
Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp.
Nguyên nhân qua 3 bước:
1. Bong bóng bất động sản hình thành
“ Fed và các ngân hàng hạ lãi suất”
Từ sau năm 2000, Fed bắt đầu thực hiện chính sách cắt giảm lãi suất quỹ dự trữ liên bang, từ 6.5% năm 2000, vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%; từ đó kéo theo lãi suất LIBOR và SIBOR giảm xuống theo còn khoảng 3%
“Chính sách kích thích mua nhà của Chính Phủ”
về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản trở thành sân chơi mới cho các nhà đầu tư
Bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc.
Việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay.
2. Bong bóng nhà đất vỡ.
Sau giai đoạn giảm lãi suất này, nhận thấy việc áp dụng lãi suất thấp gây ra áp lực lạm phát và hình thành bong bóng bất động sản, do đó
Fed đã tiến hành tăng lãi suất từ giữa năm 2004 đến giữa năm 2006 đạt mức 5.25%. Lãi suất tăng cao tác động đến khả năng trả nợ của những người đi vay trước kia:
Số đông tầng lớp trung lưu, đang vay nợ để đầu tư vào nhà đất, lúc này không còn chịu đựng nổi gánh nặng lãi suất.
• Vào cuối 2008, hàng loạt người vay nợ buộc phải trả lại nhà cửa, bất động sản mua bằng tiền vay không có thế chấp cho ngân hàng để trừ nợ. Giá bất động sản sụt giảm nhanh chóng. Tài sản cho vay được chứng khoán hoá bị bán ra ào ạt, khiến cho giá của chúng sụt giảm mạnh trên thị trường chứng khoán, cùng một lúc, hàng loạt con nợ bị vỡ nợ, với quy mô lớn, khiến cho vốn của các ngân hàng bị bốc hơi nhanh chóng
• Sự hoảng loạn từ thị trường nhà đất, lan sang thị trường chứng khoán, rồi lan sang hệ thống ngân hàng (bank panics). Khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra.
+ Những người có nhu cầu mua nhà để sinh hoạt cũng giảm nhu cầu mua nhà của mình xuống do lãi suất cao, giá nhà giảm. Chính vì lý do này kéo nhu cầu mua nhà giảm xuống
3. thị trường bất động sản đóng băng, Các ngân hàng bước vào khủng hoảng
Khi giá nhà giảm, các nhà đầu tư trên thị trường bắt đầu phản ứng của mình:
+ Bán nhà để cắt lỗ trước khi quá muộn.
+ Thị trường bất động sản đóng băng do sự giảm giá, kéo theo tài sản của ngân hàng giảm, ngân hàng phải phát mãi tài sản đang nắm giữ: MBS, ABS giá các tài sản này nhằm đảm bảo các chỉ tiêu về họat động của mình giảm xuống.
Do lãi suất tăng, một phần việc cho vay không an toàn do sự đi xuống của thị trường bất động sản, số lượng người rút tiền tăng. Do đó,
làm cho ngân hàng thiếu vốn huy động được từ liên ngân hàng., ngân hàng phải thanh lý tài sản (MBS, ABS) của mình để có tiền mặt thanh toán, giá các tài sản này càng giảm, các chỉ tiêu về hoạt động này càng xấu đi.
2. Diễn biến
• 2004-2006: Lãi suất ở Mỹ tăng từ 1% lên 5,35%, thị trường địa ốc Mỹ bắt đầu xuống giá. Các khoản vay địa ốc dưới chuẩn không trả được tăng vọt đến mức báo động.
• 2007: Các ngân hàng lớn lần lượt báo cáo lỗ do dính vào các khoản vay loại này.
• 17-3-2008: Bear Stearns, ngân hàng lớn thứ năm ở Wall Street, mới năm ngoái có giá khoảng 18 tỉ đô la phải bán cho JP Morgan Chase với giá 2 đô la/cổ phiếu so với giá 172 đô la/cổ phiếu đầu năm 2007. Fed (New York) đứng đằng sau cho vay 29 tỉ đô la để bảo lãnh các khoản nợ khó đòi.
• 11-7-2008: Ngân hàng IndyMac bị đặt dưới quyền kiểm soát của Fed và sau đó tuyên bố phá sản.
• 6-9-2008: Fed nắm quyền kiểm soát Fannie Mae và Freddie Mac, hai tập đoàn bảo lãnh tín dụng địa ốc lớn nhất Mỹ.
• 14-9-2008: Ngân hàng đầu tư Lehman Brothers tuyên bố phá sản.
• 15-9-2008: Merrill Lynch, lo sợ số phận tương tự Lehman Brothers, phải bán cho Bank of America với giá 50 tỉ đô la.
• 16-9-2008: Fed đồng ý cho AIG vay 85 tỉ đô la đổi lại quyền nắm giữ 80% cổ phiếu của hãng bảo hiểm này.
• 18-9-2008: Fed và ngân hàng trung ương các nước khác bơm 180 tỉ đô la để tháo băng tín dụng ngân hàng.
• 19-9-2008: Chính phủ Mỹ tuyên bố một kế hoạch tổng thể để cứu hệ thống tài chính, gồm một chương trình mua lại các khoản vay thế chấp xấu với chi phí ước tính lên đến 700 tỉ đô la.
3. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
Nước Mỹ
- 33 ngân hàng hàng đầu đã phá sản
- Sự xóa sổ của hai tên tuổi lừng danh là Công ty tài chính Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại và tập đoàn tài chính hàng đầu thế giới Merill Lynch 94 tuổi đời.
- Đợt sụt giảm tới 45% của chỉ số S&P 500, 4% suy giảm sản xuất, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 6,2% lên 9,7%, và gói giải cứu 784 tỷ USD cho tới kỷ lục thâm hụt ngân sách 15.900 tỷ USD.
- Nền kinh tế tiêu thụ của Mỹ đã bộc lộ rất nhiều lỗ hổng
- Siêu cường kinh tế của Mỹ đang bị đe dọa, ảnh hưởng đến sức khỏe đồng đô la
- Các số liệu cũng cho thấy, hiện tại tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ vẫn ở mức cao là 9,8%
- Số tiền chống khủng hoảng là 3,6 nghìn tỷ USD chiếm 25% GDP, bình quân 10.000USD/đầu người.
(theo VnEconomy)
4. Bài học rút ra
Đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia :
- Một hệ thống tài chính mạnh và được quản lý tốt sẽ là bước phòng thủ đầu tiên trước bất kỳ cơn bão tài chính nào
- Những phản ứng chính sách mạnh mẽ và liên tục là vòng bảo vệ
- Khả năng quản lý vĩ mô khéo léo và giá cả bất động sản.
- Tỷ giá linh hoạt mở rộng hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc đối phó với khủng hoảng tài chính.
- Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trầm trọng một phần cũng do sự mất cân đối của hệ thống tài chính của mỗi quốc gia.
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đến Việt Nam
Nhận định:
.Thị trường tài chính- Tiền tệ : hệ thống tài chính của Việt nam sẽ không chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng này so với các nước có mức độ hội nhập tài chính sâu rộng. Những tác động chính từ cuộc khủng hoảng hiện tại đối với hệ thống tài chính Việt Nam chủ yếu là yếu tố tâm lý
.Chứng khoán: tác động đến dự trữ ngoại hối và giá cả trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư nước ngoài bán ra nhiều hơn mua vào sẽ làm giảm giá chứng khoán của Việt Nam
Tác động từ tâm lý:
thị trường chứng khoán Việt Nam nhiều khi bị chi phối bởi tâm lý. Và có lẽ trong những ngày qua, khi thị trường tài chính thế giới gặp sóng gió, tâm lý lo lắng cũng một phần chuyển qua không ít nhà đầu tư Việt Nam.
Ngân Hàng
Nó có thể ảnh hưởng tới nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp. Mặc dù số nợ này không lớn, chỉ khoảng hai tỷ USD, nhưng người ta buộc phải tái cấu trúc kỳ hạn và lãi suất, và như thế có thể ảnh hưởng tình hình tài chính của một số ngân hàng và doanh nghiệp
Những tác động chung đến nền kinh tế
- Xuất khẩu sẽ gặp khó khăn lớn và giảm cả số lượng và giá cả…
- Giảm thu ngoại tệ cho quốc gia, giảm sản xuất trong nước, giảm GDP, thất nghiệp tăng
- Đầu tư nước ngoài FDI, FII, ODA giảm, giải ngân chậm…giảm nguồn thu ngoại tệ, thị trường BĐS tiếp tục khó khăn, nợ quá hạn của NH sẽ tăng
- Kiều hối giảm mạnh, đặc biệt là kiều hối “đầu tư”.
- Lãi suất vay USD tăng, chi phí trả nợ nước ngoài tăng
- Hệ thống NHTM gặp khó khăn trong thanh toán quốc tế và chi phí chuyển tiền tăng do phải tránh bão.
- Thị trường chứng khoán tiếp tục diễn biến phức tạp, do vốn nước ngoài rút.
- Vấn đề việc làm, an sinh xã hội là bài toán khó.
.
Những bài học và đối sách cần có cho Việt Nam
Không có ngoại lệ và miễn dịch phá sản cho bất kỳ đại gia nào trong cuộc chơi trên sân kinh tế thị trường
Vai trò của công tác thông tin, dự báo và giám sát, cảnh báo an toàn, nhất là an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng là hết sức quan trọng và luôn tỉnh táo với các tác động lan tỏa, dây chuyền của các sự biến kinh tế trên thị trường trong nước và quốc tế.
Nhà nước có vai trò không thể thiếu được và ngày càng to lớn trong cuộc chiến với các chấn động kinh tế chu kỳ hoặc bột phát
Việt Nam cần giám sát chặt chẽ cán cân tài khoản vốn, tỷ lệ nợ quốc gia /GDP,… để phòng ngừa sự tích tụ của các rủi ro mang tính hệ thống trên thị trường.
Vấn đề hỗ trợ và tăng cường các biện pháp đảm bảo an sinh xã hội là điều cần phải quan tâm thực hiện mạnh mẽ hơn trong giai đoạn khủng hoảng.
Tập trung nguồn lực nhằm đạt tăng trưởng bằng mọi giá có thể để lại những nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển KT-XH trong dài hạn
Duy trì tăng trưởng kinh tế là một điều kiện cần thiết nhưng phải đi đôi và gắn chặt với ổn định và lành mạnh hóa chính sách kinh tế vĩ mô:
+ Duy trì lãi suất hợp lý,
+ duy trì tăng trưởng GDP năm 2009 ở mức 6% là chấp nhận được trong tình hình thế giới hiện nay.
+ NHTW cần nhanh chóng giảm lãi suất cơ bản điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát cơ bản
+ Hỗ trợ doanh nghiệp duy trí và mở rộng lại sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu khi có cơ hội tốt.
+ Quan trọng là giảm thất nghiệp đảm bảo an sinh xã hội, phục hồi tăng trưởng kinh tế..
+ Khi có dấu hiệu lạm phát giảm mạnh, thì cần cải tổ chính sách tiền lương CBCC nhà nước, hành chính sự nghiệp…
+ Cần có một gói giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu: thuế, vốn, lãi suất, tỷ giá, xúc tiến thương mại…
+ Có một gói giải pháp để ổn định thị trường bất động sản
+ Kiểm tra giám sát “sức khỏe” các NHTM một cách thường xuyên thông qua báo cáo tuần.
+ Kiểm tra giám sát “sức khỏe” các đại gia bất động sản.
+ Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, không để nhập siêu quá lớn, tăng thuế các mặt hàng xa xỉ
\
Biện Pháp:
Chính phủ Việt Nam
* Những biện pháp đồng bộ gồm 8 nhóm giải pháp lớn:
1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ
2. Chính phủ sẽ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng kiểm soát chặt chẽ
3. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa
4. Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu
5. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu và năng lượng
6. Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu và gian lận thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá
7. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội
8. Các phương tiện thông tin đại chúng cần đẩy mạnh thông tin và tuyên truyền một cách chính xác, ủng hộ các chủ trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh thông tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã hội.
* Thực hiện ba chính sách hoàn toàn khác nhau:
năm 2007 - tất cả cho tăng trưởng,
năm 2008 - ổn định chính sách vĩ mô
từ cuối năm 2008 đến nay - chống suy giảm kinh tế
* Gói kích cầu lần I đã là 1 tỷ USD tương đương 170.000 ngàn tỷ đồng
* Ngân hàng TƯ đã cắt giảm một nửa lãi suất với các khoản vay chính sách xuống còn 7% từ giữa năm 2008 đến tháng 2/2009
*Gói kích thích kinh tế lần 2: Tái cấu trúc doanh nghiệp
Trong phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 10 vừa qua, Chính phủ đã quyết định tiếp tục thực hiện gói kích thích kinh tế nhưng giảm mức độ hỗ trợ và phạm vi.
Theo đó, việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn để đầu tư mới nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh (theo Quyết định 433) và hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp, vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn (theo Quyết định 497) sẽ được kéo dài đến 31/12/2010. Tuy vậy, mức hỗ trợ lãi suất được điều chỉnh từ 4% xuống 2%. Chính phủ cũng quyết định kéo dài hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh (theo Quyết định 131) đến hết quý I năm 2010 và thay mức hỗ trợ 4% bằng mức 2%.
(Nguồn: http://vovnews.vn)
Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam
- Giảm thiểu chi phí
- Chấp nhận thu hẹp lợi nhuận
- Tăng cường hoạt động tiếp thị
- Níu giữ lao động có tay nghề
- Tái cơ cấu lại hoạt động doanh nghiệp.
- Tận dụng cơ hội do khủng hoảng đem lại để mua được những công nghệ tiên tiến từ các thị trường tiên tiến như Mỹ, Nhật, EU để tái cơ cấu lại công nghệ.
- Nhiều doanh nghiệp Việt Nan thực hiện phương châm “Dựa vào nhau để sống và phát triển”..
Kết quả và Dấu hiệu phục hồi vào cuối quí III/2009:
- Tăng trưởng kinh tế quý sau cao hơn quý trước (quý I: 3,1%, quý II: 4,5%, quý III: 5,6%), trung bình chín tháng đạt khoảng 4,6%
-Tình hình nhập khẩu đã dần được cải thiện trong những tháng gần đây.
Cụ thể quý I/2009 giảm khoảng trên 40%, quý II giảm gần 30%, tính chung cả chín tháng đầu năm giảm khoảng trên 20% so với cùng kỳ năm trước.
(nguồn: 21 Tháng Mười Một 2009
- Chỉ số giá tiêu dùng (7%),
- bội chi ngân sách bằng (6,9%),
- 79.000 doanh nghiệp mới được thành lập,
- tạo thêm trên 1,5 triệu lao động…
(nguồn Vfej.vn)
WB dự đoán, mức tăng trưởng cả năm 2009 của Việt Nam sẽ là 5,5%, và tin tưởng rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ tự tìm đường thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng một cách tốt đẹp.
biennho_1905- Binh nhì
- Tổng số bài gửi : 35
Đánh giá bài viết : 50
Join date : 03/05/2009
Age : 35
Đến từ : hatinh
Similar topics
» Thông tin cuối cùng của việc đi chơi của lớp vào sáng thứ 6!
» thảo luận "khủng hoảng tài chính Mỹ": tất cả vào đ
» Chot gia cuoi cung con LG
» [Pics] Những bức ảnh cuối cùng... T.T
» THÔNG BÁO: Đăng ký lớp tín chỉ đợt cuối học kỳ I
» thảo luận "khủng hoảng tài chính Mỹ": tất cả vào đ
» Chot gia cuoi cung con LG
» [Pics] Những bức ảnh cuối cùng... T.T
» THÔNG BÁO: Đăng ký lớp tín chỉ đợt cuối học kỳ I
:: THÔNG TẤN XÃ :: Chuyện học hành
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết